Bình Ngô đại cáo

Bình Ngô đại cáo (1428) là bài cáo của Nguyễn Trãi viết thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.

Bình Ngô đại cáo

Bình Ngô đại cáo (Ngô Tất Tố dịch)

Bình Ngô đại cáo (Ngô Tất Tố dịch)STT
Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng.1
Từng nghe:2
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân3
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo4
Như nước Đại Việt ta từ trước5
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu6
Núi sông bờ cõi đã chia7
Phong tục Bắc Nam cũng khác8
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập9
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương10
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau11
Song hào kiệt thời nào cũng có.12
Cho nên:13
Lưu Cung tham công nên thất bại,14
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,15
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô16
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã17
Việc xưa xem xét,18
Chứng cớ còn ghi.19
Vừa rồi:20
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,21
Để trong nước lòng dân oán hận.22
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,23
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.24
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,25
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.26
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,27
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.28
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,29
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.30
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.31
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.32
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,33
Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.34
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,35
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.36
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;37
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.38
Nặng nề những nổi phu phen,39
Tan tác cả nghề canh cửi.40
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,41
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.42
Lẽ nào trời đất dung tha,43
Ai bảo thần dân chịu được?44
Ta đây:45
Núi Lam sơn dấy nghĩa46
Chốn hoang dã nương mình47
Ngẫm thù lớn há đội trời chung48
Căm giặc nước thề không cùng sống49
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời50
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.51
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,52
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.53
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,54
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi55
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,56
Chính lúc quân thù đang mạnh.57
Lại ngặt vì:58
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,59
Nhân tài như lá mùa thu,60
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,61
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,62
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,63
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.64
Thế mà:65
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.66
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.67
Phần vì giận quân thù ngang dọc,68
Phần vì lo vận nước khó khăn,69
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,70
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.71
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn72
Ta gắng trí khắc phục gian nan.73
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới74
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.75
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,76
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.77
Trọn hay:78
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,79
Lấy chí nhân để thay cường bạo.80
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,81
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.82
Sĩ khí đã hăng83
Quân thanh càng mạnh.84
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,85
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.86
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,87
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.88
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm89
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.90
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu91
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.92
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy93
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.94
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,95
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.96
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ97
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.98
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,99
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.100
Bởi thế:101
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng102
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy103
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại104
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.105
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong106
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực107
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế108
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu109
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong110
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.111
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá112
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau113
Lại thêm quân bốn mặt vây thành114
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc115
Sĩ tốt kén người hùng hổ116
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh117
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn118
Voi uống nước, nước sông phải cạn.119
Đánh một trận, sạch không kình ngạc120
Đánh hai trận tan tác chim muông.121
Cơn gió to trút sạch lá khô,122
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.123
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,124
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.125
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường126
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước127
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,128
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ129
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!130
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.131
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc132
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.133
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,134
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng135
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng136
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh137
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,138
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.139
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng140
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.141
Chẳng những mưu kế kì diệu142
Cũng là chưa thấy xưa nay143
Xã tắc từ đây vững bền144
Giang sơn từ đây đổi mới145
Càn khôn bĩ rồi lại thái146
Nhật nguyệt hối rồi lại minh147
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu148
Muôn thuở nền thái bình vững chắc149
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;150
Than ôi!151
Một cỗ nhung y chiến thắng,152
Nên công oanh liệt ngàn năm153
Bốn phương biển cả thanh bình,154
Ban chiếu duy tân khắp chốn.155
Xa gần bá cáo,156
Ai nấy đều hay.157
Bình Ngô đại cáo (nguyên văn chữ Hán)

Phiên âm Hán ViệtNguyên bản chữ HánSTT
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:代天行化皇上若曰。1
Cái văn:蓋 聞﹕2
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,仁 義 之 舉,要 在 安 民 ,3
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.弔 伐 之 師,莫 先 去 暴 。4
Duy ngã Đại Việt chi quốc,惟 我 大 越 之 國 ,5
Thực vi văn hiến chi bang.實 為 文 獻 之 邦 。6
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,山 川 之 封 域 既 殊,7
Nam bắc chi phong tục diệc dị.南 北 之 風 俗 亦 異 。8
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,[1]自 趙 丁 李 陳 之 肇 造 我 國 ,9
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.與 漢 唐 宋 元 而 各 帝 一 方 。10
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,雖 強 弱 時 有 不 同11
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.而 豪 傑 世 未 常 乏 。12
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,故 劉 龔 貪 功 以 取 敗,13
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.而 趙 禼 好 大 以 促 亡 。14
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,唆 都 既 擒 於 鹹 子 關 ,15
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.[2]烏 馬 又 殪 於 白 藤 海 。16
Kê chư vãng cổ,嵇 諸 往 古,17
Quyết hữu minh trưng.厥 有 明 徵。18
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,頃 因 胡 政 之 煩 苛 。19
Trí sử nhân tâm chi oán bạn.至 使 人 心 之 怨 叛 。20
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;狂 明 伺 隙, 因 以 毒 我 民;21
Ngụy đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.惡 黨 懷 奸, 竟 以 賣 我 國 。22
Hân thương sinh ư ngược diệm,焮 蒼 生 於 虐 焰,23
Hãm xích tử ư họa khanh.陷 赤 子 於 禍 坑 。24
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;欺 天 罔 民, 詭 計 蓋 千 萬 狀;25
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.連 兵 結 釁 稔 惡 殆 二 十 年 。26
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;敗 義 傷 仁,乾 坤 幾 乎 欲 息;27
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.重 科 厚 歛, 山 澤 靡 有 孑 遺。28
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,開 金 場 塞 冒 嵐 瘴 而 斧 山 淘 沙,29
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.採 明 珠 則 觸 蛟 龍 而 緪 腰 汆 海 。30
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,擾 民 設 玄 鹿 之 陷 阱 ,31
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.殄 物 織 翠 禽 之 網 羅 。32
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,昆 虫 草 木 皆 不 得 以 遂 其 生,33
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.鰥 寡 顛 連 俱 不 獲 以 安 其 所 。34
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;浚 生 靈 之 血 以 潤 桀 黠 之 吻 牙;35
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.極 土 木 之 功 以 崇 公 私 之 廨 宇 。36
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,州 里 之 征 徭 重 困,37
Lư diêm chi trữ trục giai không.閭 閻 之 杼 柚 皆 空 。38
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,決 東 海 之 水 不 足 以 濯 其 污,39
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.罄 南 山 之 竹 不 足 以 書 其 惡 。40
Thần dân chi sở cộng phẫn,神 民 之 所 共 憤,41
Thiên địa chi sở bất dung.天 地 之 所 不 容 。42
Dư:43
Phấn tích Lam Sơn,奮 跡 藍 山,44
Thê thân hoang dã.棲 身 荒 野 。45
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,念 世 讎 豈 可 共 戴,46
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.誓 逆 賊 難 與 俱 生 。47
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,痛 心 疾 首 者 垂 十 餘 年,48
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.嘗 膽 臥 薪 者 蓋 非 一 日 。49
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,發 憤 忘 食, 每 研 覃 韜 略 之書,50
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.即 古 驗 今, 細 推 究 興 亡 之 理 。51
Đồ hồi chi chí圖 回 之 志52
Ngộ mị bất vong.寤 寐 不 忘 。53
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,當 義 旗 初 起 之 時,54
Chính tặc thế phương trương chi nhật.正 賊 勢 方 張 之 日 。55
Nại dĩ:奈 以 ﹕56
Nhân tài thu diệp,人 才 秋 葉,57
Tuấn kiệt thần tinh.俊 傑 晨 星 。58
Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,奔 走 先 後 者 既 乏 其 人 ,59
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.謀 謨 帷 幄 者 又 寡 其 助。60
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;特 以 救 民 之 念, 每 鬱 鬱 而 欲 東;61
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.故 於 待 賢 之 車, 常 汲 汲 已 虛 左 。62
Nhiên kỳ:然 其63
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,得 人 之 效 茫 若 望 洋,64
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.由 己 之 誠 甚 於 拯 溺 。65
Phẫn hung đồ chi vị diệt,憤 兇 徒 之 未 滅,66
Niệm quốc bộ chi tao truân.念 國 步 之 遭 迍 。67
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,靈 山 之 食 盡 兼 旬,68
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.瑰 縣 之 眾 無 一 旅 。69
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,蓋 天 欲 困 我 以 降 厥 任,70
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.故 與 益 勵 志 以 濟 于 難 。71
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;揭 竿 為 旗, 氓 隸 之 徒 四 集72
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.投 醪 饗 士, 父 子 之 兵 一 心 。73
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;以 弱 制 彊, 或 攻 人 之 不 備;74
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.以 寡 敵 眾,常 設 伏 以 出 奇。75
Tốt năng:卒 能76
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,以 大 義 而 勝 兇 殘,77
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.以 至 仁 而 易 彊 暴。78
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,蒲 藤 之 霆 驅 電 掣 ,79
Trà Lân chi trúc phá khôi phi.茶 麟 之 竹 破 灰 飛 。80
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,士 氣 以 之 益 增,81
Quân thanh dĩ chi đại chấn.軍 聲 以之 大 振 。82
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,陳 智 山 壽 聞 風 而 褫 魄,83
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.李 安 方 政 假 息 以 偷 生 。84
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;乘 勝 長 驅, 西 京 既 為 我 有;85
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.選 兵 進 取, 東 都 盡 復 舊 疆 。86
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;寧 橋 之 血 成 川, 流 腥 萬里;87
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.窣 洞 之 屍 積 野 ,遺 臭 千 年 。88
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;陳 洽 賊 之 腹 心, 既 梟 其 首;89
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.李 亮 賊 之 奸 蠹, 又 暴 厥 屍 。90
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,王 通 理 亂 而 焚 者 益 焚,91
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.馬 瑛 救 鬥 而 怒 者 益 怒 。92
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;彼 智 窮 而 力 盡, 束 手 待 亡;93
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.我 謀 伐 而 心 攻, 不 戰 自 屈。94
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,謂 彼 必 易 心 而 改 慮,95
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.豈 意 復 作 孽 以 速 辜。96
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,執 一 己 之 見 以 嫁 禍 於 他 人,97
Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.貪 一 時 之 功 以 貽 笑 於 天 下 。98
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;遂 靈 宣 德 之 狡 童, 黷 兵 無厭;99
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.仍 命 晟 昇 之 懦 將, 以 油 救 焚 。100
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,丁 未 九月 柳 昇 遂 引 兵 猶 邱 溫而 進,101
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.本 年 十 月 木 晟 又 分 途 自 雲 南 而 來 。102
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,予 前 既 選 兵 塞 險 以 摧 其 鋒,103
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.予 後 再 調 兵 截路 以 斷 其 食 。104
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;本 月 十八 日 柳 昇 為 我 軍 所 攻, 計 墜 於 支 稜 之 野 ;105
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.本 月 二 十 日 柳 昇 又 為 我 軍 所 敗, 身 死 於 馬鞍 之 山 。106
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,二 十 五 日 保定 伯 梁 銘 陣 陷 而 喪 軀,107
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.二 十 八 日 尚 書 李 慶 計 窮 而 刎 首 。108
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,我 遂 迎刃 而 解,109
Bỉ tự đảo qua tương công.彼 自 倒 戈 相攻 。110
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,繼 而 四 面 添 兵 以包 圍,111
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.期 以 十 月 中 旬而 殄 滅 。112
Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,爰 選 貔 貅 之士,113
Thân mệnh trảo nha chi thần.申 命 爪 牙 之 臣 。114
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,飲 象 而 河 水 乾,115
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.磨 刀而 山 石 鈌 。116
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,一 鼓 而 黥 刳 鱷 斷,117
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.再 鼓 而 鳥 散 麇 驚 。118
Quyết hội nghĩ ư băng đê,決 潰 蟻 於 崩 堤,119
Chấn cương phong ư cảo diệp.振 剛 風 於 稿 葉 。120
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,都督 崔 聚 膝 行 而 送 款 ,121
Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.尚 書 黃 福 面 縛 以 就 擒。122
Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,僵 屍 塞 諒 江 諒 山 之途,123
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.戰 血 赤 昌 江 平 灘之 水 。124
Phong vân vị chi biến sắc,風 雲 為 之 變 色,125
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.日 月 慘 以 無 光 。126
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;其 雲 南 兵 為 我 軍 所 扼 於 梨 花 ,自 恫 疑 虛 喝 而 先 以 破 腑;127
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.其 沐 晟 眾 聞 昇 軍 大 敗 於 芹 站, 遂 躪 藉 奔 潰 而 僅 得 脫 身。128
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;冷 溝 之 血杵 漂, 江 水 為 之 嗚 咽;129
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.丹 舍 之 屍 山 積, 野草 為 之 殷 紅 。130
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,兩 路 救兵 既 不 旋 踵 而 俱 敗 ,131
Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.各 城 窮 寇 亦 將 解 甲 以出 降 。132
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;賊 首 成 擒, 彼 既 掉 餓 虎 乞 憐 之 尾 ;133
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.神 武 不 殺, 予 亦 體 上帝 孝 生 之 心 。134
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;參 將 方政, 內 官 馬 騏, 先 給 艦 五 百 餘 艘, 既 渡 海 而 猶 且 魂 飛 魄 散;135
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.總 兵 王 通, 參 政 馬 瑛 ,又 給 馬 數 千 餘 匹, 已 還 國 而 益 自 股 慄 心 驚。136
Bỉ ký úy tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;彼 既 畏 死 貪 生, 而修 好 有 誠;137
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.予 以 全 軍 為 上, 而 欲 民 之 得 息。138
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,非 惟 謀 計 之 極 其 深遠,139
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.蓋 亦 古 今 之 所 未見 聞 。140
Xã tắc dĩ chi điện an,社 稷 以 之 奠安,141
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.山 川 以 之 改 觀 。142
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,乾 坤 既 否 而 復 泰,143
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.日 月 既 晦 而 復 明 。144
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,于 以 開 萬 世 太 平 之 基,145
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.于 以 雪 天 地 無 窮 之 恥 。146
Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.是 由 天 地 祖 宗 之 靈 有 以 默 相 陰 佑 而 致 然 也 !147
Ô hô!於 戲 !148
Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công;一 戎 大 定, 迄 成 無 兢 之功;149
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.四 海 永 清, 誕 布 維 新 之 誥 。150
Bá cáo hà nhĩ,播 告 遐 邇,151
Hàm sử văn tri.咸 使 聞 知 。152
Bình Ngô đại cáo (Bùi Kỷ dịch)

Bình Ngô đại cáo (Bùi Kỷ dịch)STT
Tượng mảng:1
Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân,2
Quân điếu-phạt chỉ vì khứ bạo,3
Như nước Việt ta từ trước,4
Vốn xưng văn-hiến đã lâu,5
Sơn-hà cương-vực đã chia,6
Phong-tục bắc nam cũng khác.7
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập,8
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương,9
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,10
Song hào-kiệt đời nào cũng có.11
Vậy nên12
Lưu Cung sợ uy mất vía,13
Triệu Tiết nghe tiếng giật mình,14
Cửa Hàm-tử giết tươi Toa Đô,15
Sông Bạch-đằng bắt sống Ô Mã,16
Xét xem cổ-tích,17
Đả có minh-trưng,18
Vừa rồi19
Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà,20
Để trong nước nhân-dân oán bạn,21
Quân cường Minh đã thừa-cơ tứ ngược,22
Bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh,23
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn,24
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ.25
Chước dối đủ muôn nghìn khoé,26
Ác chứa ngót hai mươi năm.27
Bại nhân-nghĩa nát cả càn-khôn,28
Nặng khóa-liễm vét không sơn-trạch29
Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,30
Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả,31
Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc,32
Nheo-nhóc thay! quan quả điên liên33
Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy! no-nê chưa chán,34
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa,35
Nặng-nề về những nỗi phu-phen,36
Bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi.37
Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,38
Dơ-bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,39
Lẽ nào trời đất tha cho,40
Ai bảo thần-nhân nhịn được.41
Ta đây:42
Núi Lam-sơn dấy nghĩa,43
Chốn hoang-dã nương mình,44
Ngắm non sông căm nổi thế thù,45
Thề sống chết cùng quân nghịch-tặc,46
Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa,47
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối,48
Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh,49
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ.50
Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị,51
Chỉ băn-khoăn một nỗi đồ hồi.52
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,53
Chính lúc qnân thù đang thịnh.54
Lại ngặt vì:55
Tuấn-kiệt như sao buổi sớm,56
Nhân-tài như lá mùa thu,57
Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần,58
Nơi duy ác hiếm người bàn-bạc.59
Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông60
Mấy thủa đợi chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư-tả,61
Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt-mù như kẻ vọng dương,62
Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội-vã như kh chửng nịch,63
Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc,64
Phần thì lo quốc-bộ khó-khăn,65
Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần,66
Khi Khôi-huyện quân không một đội,67
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma,68
Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.69
Múa đầu gậy ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ,70
Mở tiệc quân chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ-tử.71
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,72
Quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.73
Dọn hay:74
Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn,75
Lấy chí nhân mà thay cường-bạo.76
Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy,77
Miền Trà-lân trúc phá tro bay,78
Sĩ-khí đã hăng,79
Quân-thanh càng mạnh.80
Trần Trí, Sơn Thọ, mất vía chạy tan.81
Phương Chính, Quí An tìm đường trốn-tránh.82
Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc.83
Lấy Đông-đô thu lại cõi xưa,84
Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông,85
Bến Tụy-động xác đầy ngoài nội.86
Trần Hiệp đã thiệt mạng,87
Lý Lương lại phơi thây.88
Vương Thông hết cấp lo-lường,89
Mã Anh khôn đường cứu-đỡ90
Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao,91
Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.92
Tưởng nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui,93
Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt.94
Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người,95
Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dở-duốc.96
Đến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-đức, nhàm võ không thôi.97
Lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng đem đầu chữa cháy.98
Năm Đinh-mùi tháng chín,99
Liễu Thăng tự Khâu-ôn tiến sang,[1]100
Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến.101
Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc-quân,102
Ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương-đạo.103
Mười-tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng,[2]104
Hai-mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên,105
Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong,106
Hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn,107
Lưỡi dao ta đang sắc,108
Ngọn giáo giặc phải lùi,109
Lại thêm quân bốn mặt vây thành110
Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.111
Sĩ-tốt ra oai tì-hổ,112
Thần-thứ đủ mặt trảo nha.113
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,114
Voi uống nước, nước sông phải cạn.115
Đánh một trận sạch không kinh-ngạc.116
Đánh hai trận tan-tác chim-muông.117
Cơn gió to trút sạch lá khô,118
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.119
Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi,120
Hoàng Phúc tự trói để hàng.121
Lạng-giang, Lạng-sơn, thây chất đầy đồng,122
Xương-giang, Bình-than, máu trôi đỏ nước.123
Ghê-gớm thay! sắc phong-vân phải đổi,124
Thảm-đạm thay! sáng nhật-nguyệt phải mờ.125
Binh Vân-nam nghẻn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật.126
Quân Mộc Thạnh tan chưng Cần-trạm, chạy để thoát thân,127
Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ,128
Thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa.129
Hai mặt cứu-binh, cắm đầu trốn chạy,130
Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.131
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội,132
Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.133
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực,134
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi.135
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú-phục,136
Ta muốn toàn quân làm cốt, cả nước nghỉ-ngơi.137
Thế mới là mưu-kế thật khôn,138
Vả lại suốt xưa nay chưa có.139
Giang-san từ đây mở mặt,140
Xã-tắc từ đây vững-bền.141
Nhất-nguyệt hối mà lại minh,142
Kiền-khôn bĩ mà lại thái.143
Nền vạn thế xây nên chăn-chắn.144
Thẹn ngìn thu rửa sạch làu-làu.145
Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng giúp-đỡ cho nước ta vậy.146
Than ôi!147
Vẫy-vùng một mảnh nhung-y, nên công đại định.148
Phẳng-lặng bốn bề thái-vũ, mở hội vĩnh-thanh,149
Bá cáo xa gần,150
Ngỏ cùng nghe biết.151
Bình Ngô đại cáo (bản dịch của Mạc Bảo Thần)

Bình Ngô đại cáo (Mạc Bảo Thần dịch)STT
Thay Trời giáo-hóa, Hoàng-thượng truyền rằng:1
Làm việc trọng nhân vì nghĩa, cốt là yêu đám lương-dân.2
Cất quân hỏi tội, cứu đời, trước phải trừ loài tàn-bạo!3
Thử xét nước nhà: Đại Việt.4
Vốn là xứ-sở văn-minh.5
Cõi bờ của sông, núi đã chia.6
Phong-tục của Bắc, Nam cũng khác.7
Từ Triệu Đinh, Lý, Trần, đã dựng thành một nước;8
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, đều làm chúa một phương.9
Dù mạnh yếu có lúc không đều;10
Nhưng hào-kiệt chưa đời nào thiếu!11
Cho nên: Triệu Tiết thích lớn mà mau mất!12
Lưu Cung tham công mà hóa thua!13
Mã Nhi đã chết ở bể Bạch-đằng!14
Toa Đô lại tù ở ải Hàm-tử!15
Xét về đời trước,16
Gương đã rõ ràng!17
Gần đây vì họ Hồ phép ngặt, lệnh phiền;18
Đến nỗi khiến dân nước lòng lìa, dạ oán.19
Giặc Minh dòm-dở, bèn mượn thế tàn dân!20
Lũ nịnh gian-tham, nỡ cam lòng bán nước!21
Dẩy con đỏ xuống hang tối!22
Thui dân đen bằng lửa nồng!23
Dối trời, lừa người, mẹo bày ra có nghìn muôn cách!24
Tràn quân, gây chuyện, ác chứa lại ngót hai mươi năm!25
Trái nghĩa, hại nhân, lẽ Trời Đất tưởng chừng tắt hẳn!26
Thu nhiều, lấy nặng, lợi núi, chầm, vét chẳng sót đâu!27
Kẻ khai mỏ vàng thì đào non, đãi cát, mà nước độc dám nài.28
Người lấy ngọc trai thì lặn biển dấn thân mà rồng thiêng chẳng quản.29
Giết-hại vật thì dệt ra lưới bắt chim trả!30
Quấy rối dân thì đặt ra bẫy bắt hươu đen!31
Bọn long-đong côi-cút, dều không tìm được chỗ nương thân!32
Dù sâu, bọ, cỏ, cây, cũng không biết có ngày vui sống!33
Béo nanh, miệng, bao phường kiệt-kiệt, rút-bòn máu-mủ sinh-linh!34
Đẹp đền-đài khắp ngã công, tư, hoài-phí công trình xây-dựng.35
Nơi châu-quận, thuế-sưu nặng lắm!36
Miền nhà quê khung-cửi sạch không!37
Tháo biển Đông cho cạn sông, không đủ để gột hết dơ!38
Chặt núi Nam cho trụi tre, không đủ để chép hết tội!39
Thần, Dân đều phải căm giận!40
Trời, Đất, lẽ nào có dung!41
Ta, cất bước núi Lam:42
Nương thân nội cỏ.43
Nghĩ thù nước, Trời không chung đội!44
Thề giặc ngoài, thế chẳng sống đôi!45
Vò đầu, nát ruột, kể đã hơn mười năm!46
Nếm mật, nằm chông, nào phải mới một sớm!47
Quên bữa chỉ vì lòng tức-bực, sách lược-thao thường vẫn đọc, bàn.48
Theo xưa mà nghiệm việc đời nay, lẽ hưng-phế kỹ-càng suy-xét.49
Tấm lòng khôi-phục.50
Thức, ngủ không quên!51
Quân nghĩa ta mới nổi lúc đầu,52
Thế giặc nó chính đương còn mạnh.53
Khốn nổi: tuấn-kiệt như sao buổi sớm!54
Nhân-tài như lá mùa thu!55
Bên mình thua, chạy, đã thiếu tay sai;56
Trong trướng tính-toan lại ít người giúp.57
Nhưng sốt ruột cứu bầy dân-chúng, thường bồn-chồn muốn đánh sang Đông;58
Nên sắp xe đợi bậc hiền-tài, vẫn thành-kính bỏ không phía Tả.59
Thế nhưng: mờ-mịt như trông ra bể, người có thấy ai!60
Vội vàng hơn vớt đắm đò, ta nào nản dạ!61
Giận lũ giặc chưa đến ngày tuyệt diệt!62
Thương nước-nhà còn đương bước long-đong!63
Cơm Linh-sơn chịu thiếu hàng tuần!64
Quân Côi-huyện không còn thành đội!65
Chắc trời muốn thử người để giao cho công-việc;66
Nên Ta càng gắng chí, để vượt khỏi gian-nan!67
Vỉ bẻ làm cờ, dân cầy-cuốc nổi theo tứ phía!68
Rượu hòa thêm nước, quân cha-con vốn dốc một lòng!69
Đánh người hoặc nhân lúc hở cơ, yếu đè được mạnh!70
Bày kế thường đặt quân mai phục, ít địch nổi nhiều.71
Rút lại: lấy đại-nghĩa mà diệt lũ hung-tàn;72
Lấy chí-nhân mà thay được phường cường-bạo.73
Quân Đồ-bằng sấm vang, chớp nhoáng!74
Giặc Trà-lân nứa chẻ, tro bay!75
Hăng-hái vì thế tăng thêm;76
Tiếng-tăm từ đó lừng-lẫy!77
Lũ Trần Trí, Sơn Thọ, vía tan theo gió!78
Bọn Lý An, Phương Chính, sống tạm từng hơi!79
Thừa thắng đuổi dài, chiếm-cứ được thành Tây-kinh trước.80
Kén tài tiến đánh, thu phục hết đất Đông-đô xưa!81
Ninh-kiều máu chảy thành sông, tanh lây muôn dặm!82
Tốt-động thây nằm đầy nội, để thối nghìn thu!83
Lý Lương là sâu mọt dân, ta đã đem phanh xác!84
Trần Hiệp là tay chân quân giặc, cũng bị bêu đầu!85
Vương Thông dẹp loạn mà nơi cháy lại cháy thêm.86
Mã Ánh gỡ đòn mà kẻ giận càng giận dữ!87
Trí đã cùn, sức đã kiệt, chúng bó tay đợi chết biết sao!88
Phá bằng mưu, công bằng lòng, ta không đánh mà được là thế.89
Tưởng chúng tất biết nghĩ và đổi bụng-dạ.90
Nào ngờ còn gây chuyện để thêm tội-tình.91
Gieo tai-vạ cho kẻ khác, chỉ chấp theo ý-kiến riêng mình.92
Làm trò cười cho người đời, bởi tham được thành công chốc lát.93
Xui-khiến thằng nhãi ranh Tuyên đức, không chán dụng binh!94
Bèn sai phường tướng khổ Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy!95
Tháng chín Đinh-mùi Liễu Thăng tự dẫn quân do Ôn-khâu tiến đánh.96
Tháng mười năm ấy, Mộc Thạnh cũng chia ngả từ Vân-nam kéo sang.97
Ta: Trước đã kén quân phục nấp nơi hiểm-yếu, đánh cho tan đội tiên-phong.98
Sau lại cho kỳ-binh chẹn lối đi về, cắt cho đứt đường lương-thực.99
Ngày mười-tám, mắc mưu ở ải Chi-lăng, Liễu Thăng đã bị ta đánh bại!100
Ngày hai-mươi, thua trận ở núi Yên-ngựa, Liễu Thăng lại bị ta chém đầu!101
Ngay hai mươi lăm, Bảo-định-bá là Lương Minh, trận vỡ phải liều mình.102
Ngày hai mươi tám, Thượng thư Tào là Lý Khánh kế cùn tự đâm cổ!103
Ta đã tiến đâu được đấy!104
Nó liền giở giáo đánh nhau,105
Kế đó thêm quân bốn mặt để bao vây!106
Hẹn đến trung tuần tháng mười là diệt hết!107
Bèn sai các tướng nanh-vuốt,108
Đem theo những lính hùm-beo,109
Voi uống mà cạn nước sông!110
Dao mài đủ lở đá núi!111
Một trận mà băm kình, chém ngạc!112
Hai trận mà xẩy nghé, tan đàn!113
Tưới tổ kiến bằng thế nước tràn!114
Rung lá khô bằng làn gió mạnh.115
Đô-đốc Thôi Tụ quỳ gối mà đưa lễ;116
Thượng-thư Hoàng Phúc, trơ mặt mà nộp mình!117
Xác chết đầy cả đường Lạng-sơn, Lạng-giang!118
Máu chảy đỏ cả nước Bình-than, Xương-thủy!119
Muôn dặm gió, mây, đổi màu ảm-đạm!120
Hai vầng nhật, nguyệt. ánh-sáng lu lờ!121
Quân Vân-nam bị ta chẹn lối ở Lê-quan, tự ngờ sợ, bàng-hoàng, mà vỡ cả mật!122
Bọn Mộc Thạnh bị ta đánh bại ở Cần-trạm, tự giầy xéo, tan vỡ, chỉ thoát được thân!123
Lãnh-câu máu chảy trôi chầy, nước sông khóc thảm!124
Đan-xá thây chồng bằng núi, cỏ nội đẫm hồng!125
Quân cứu hai đường, chưa kịp quanh chân đã vỡ!126
Giặc tàn các ngả, cùng nhau cởi giáp xin hàng!127
Tướng giặc bị tù, thú sa bẫy đã vẫy đuôi xin mạng!128
Oai thần không giết, Trời chí công nên mở lượng hiếu sinh!129
Bọn Tham-tướng Phương Chính, Nội-quan Mã Kỳ, cấp trước cho hơn năm trăm thuyền, vượt bể rồi mà vẫn hồn xiêu, vía lạc.130
Bọn Tổng-binh Vương Thông, Tham-chính Mã Ánh, về nước rồi mà còn lòng khiếp người run!131
Nó đã tham sống, sợ chết, mà thực bụng giảng hòa.132
Ta lấy toàn quân là hơn, để cho dân nghỉ sức.133
Chẳng những mưu-kế thực sâu-xa tột bực!134
Mà cũng xưa nay chưa nghe thấy bao giờ!135
Non sông rày đã khác xưa!136
Xả-tắc từ đây yên vững!137
Ánh Ác, Thỏ tối rồi lại sáng!138
Lẽ Kiền-khôn cùng mãi phải thông!139
Để gây-dựng nền thái-bình cho muôn đời!140
Để gội-rửa nhục vô-cùng cho cả nước!141
Cũng là nhờ Trời, Đất, Tổ-tông linh-thiêng, đã ngấm-ngầm phù-hộ mà được như thế này!142
Than ôi! Mảng giáp dẹp yên hết cả, gây được nên công-nghiệp phi thường.143
Bốn phương phẳng-lặng từ nay, bảo cho biết cuộc đời đổi mới.144
Bá cáo thiên-hạ,145
Đâu đấy đều hay!146
Bình Ngô đại cáo (bản dịch của Trần Trọng Kim)

STTBình Ngô đại cáo (Trần Trọng Kim dịch)
1Tượng-mảng:
2Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn-hiến đã lâu. Sơn-hà cương-vực đã chia, phong-tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào-kiệt đời nào cũng có.
3Vậy nên:
4Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm-tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch-đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ-tích, đã có minh-trưng[1].
5Vừa rồi:
6Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà, để trong nước nhân-dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược[2], bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân-nghĩa, nát cả càn-khôn, nặng khoa-liễm[3] vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc; nheo-nhóc thay quan quả điên-liên[4]. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no-nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa. Nặng-nề về những nỗi phu-phen, bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi. Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; dơ-bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần-nhân nhịn được.
7Ta đây:
8Núi Lam-sơn dấy nghĩa, chốn hoang-dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch-tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ. Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị, chỉ băn-khoăn một nỗi đồ-hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.
9Lại ngặt vì:
10Tuấn-kiệt như sao buổi sớm, nhân-tài như lá mùa thu. Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần, nơi duy-ác hiếm người bàn-bạc. Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông[5]; mấy thủa đợi-chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư tả[6]. Thế mà trông người, người càng vắng-ngắt, vẫn mịt-mờ như kẻ vọng dương[7]; thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội-vã như khi chửng-nịch[8]. Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc, phần thì lo quốc-bộ khó-khăn. Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi-huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố-gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
11Dọn hay:
12Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn, lấy chí nhân mà thay cường-bạo. Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy, miền Trà-lân trúc phá tro bay. Sĩ-khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn-tránh. Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc, lấy Đông-đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông; bến Tụy-động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương thông hết cấp lo lường, Mã Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ-duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên-đức[9], nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm đinh-mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu-ôn tiếng sang; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc-quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương-đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên. Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong; hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ-tốt ra oai tì hổ, thần-thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình-ngạc, đánh hai trận tan-tác chim-muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng-giang, Lạng-sơn thây chất đầy đường, Xương-giang, Bình-than máu trôi đỏ nước. Gớm-ghê thay! sắc phong-vân cũng đổi; thảm-đạm thay! sáng nhật-nguyệt phải mờ. Binh Vân-nam nghẽn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần-trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ; thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú-phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ-ngơi.
13Thế mới là mưu-kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang-san từ đây mở mặt, xã-tắc từ đây vững nền. Nhật-nguyệt hối mà lại minh, càn-khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn-chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu. Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng che-chở, giúp-đỡ cho nước ta vậy.
14Than ôi!
15Vẫy-vùng một mảng nhung-y nên công đại-định, phẳng-lặng bốn bề thái-vũ mở hội vĩnh-thanh. Bá-cáo xa gần, ngỏ cùng nghe biết.