Hỡi ơi ! | 1 |
Súng giặc đất rền; | 2 |
Lòng dân trời tỏ. | 3 |
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; | 4 |
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ. | 5 |
Nhớ linh xưa | 6 |
Cui cút làm ăn; | 7 |
Toan lo nghèo khó, | 8 |
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung ; | 9 |
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ. | 10 |
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; | 11 |
Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ, mắt chưa từng ngó. | 12 |
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; | 13 |
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. | 14 |
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; | 15 |
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ. | 16 |
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; | 17 |
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó. | 18 |
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; | 19 |
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này nguyện ra tay bộ hổ. | 20 |
Khá thương thay! | 21 |
Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; | 22 |
Chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ | 23 |
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; | 24 |
Chín chục trận binh thư, không chờ bày bố. | 25 |
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, | 26 |
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chỉ nài sắm dao tu, nón gõ. | 27 |
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; | 28 |
Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. | 29 |
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; | 30 |
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. | 31 |
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; | 32 |
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ. | 33 |
Ôi! | 34 |
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ. | 35 |
Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; | 36 |
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, xá đợi gươm hùm treo mộ. | 37 |
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; | 38 |
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ. | 39 |
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vì binh đánh giặc cho cam tâm; | 40 |
Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số. | 41 |
Nhưng nghĩ rằng: | 42 |
Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; | 43 |
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó. | 44 |
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; | 45 |
Vì ai xui hào lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió. | 46 |
Sống làm chi theo quân tả đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; | 47 |
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu ngọt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ. | 48 |
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; | 49 |
Còn hơn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. | 50 |
Ôi thôi thôi! | 51 |
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; | 52 |
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ. | 53 |
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; | 54 |
Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ. | 55 |
Ôi! | 56 |
Một trận khói tan, | 57 |
Nghìn năm tiết rỡ. | 58 |
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; | 59 |
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ. | 60 |
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; | 61 |
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. | 62 |
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; | 63 |
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đức đó. | 64 |
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,thương vì hai chữ thiên dân; | 65 |
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ. | 66 |
Hỡi ôi, thương thay! | 67 |
Có linh xin hưởng. | 68 |